Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào? Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp. Xin chân thành cảm ơn! yenvi3@… Trả lời: Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP). Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết. Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất… Ngoài ra, tại thời điểm bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG |
Thứ tư, 21/04/2010 |
Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi – người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ. Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đò
VIP
Bán nhà Phường 1, Quận Bình Thạnh Lê Văn Duyệt 4 tầng trệt 2 lầu ST.
2 tỷ 800 triệu– 21m2
Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh
Hôm nay
0911194***
VIP
Vinhome Green City Hậu Nghĩa–Sống Xanh và chạm Đến Ước Mơ An Cư
3 tỷ 900 triệu– 60m2
Đức Hòa, Long An
Hôm nay
0986354***
VIP
Nhà Hẻm Xe Hơi Gò Dầu (DT 8.1x19m) xây được hầm lửng 4 lầu st, giá 14 tỷ TL
14 tỷ – 154m2
Quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh
Hôm nay
0909311***
VIP
bán nhà kdc xuyên á, nhà xây ở kiên cố, shr hoàn công đầy đủ
3 tỷ 850 triệu– 80m2
Đức Hòa, Long An
Hôm nay
0915852***
VIP
Bán khách sạn mini trung tâm Cát Bà , có bãi tắm riêng, đẹp nhất đảo
19 tỷ 900 triệu– 135m2
Cát Hải, TP. Hải Phòng
Hôm nay
0988839***
VIP
BÁN NHÀ TRỆT LỮNG LẦU SHR 1/LÊ VĂN KHƯƠNG , XÃ ĐÔNG THẠNH , HÓC MÔN
5 tỷ 699 triệu– 84m2
Huyện Hóc Môn , TP. Hồ Chí Minh
Hôm nay
0977830***
VIP
BÁN SHOPHOUSE KHỐI ĐẾ SUN PONTE MẶT TIỀN ĐƯỜNG TRẦN HƯNG ĐẠO QUẬN SƠN TRÀ.
Thương lượng– 0m2
Sơn Trà, TP. Đà Nẵng
Hôm nay
0922156***
VIP
Bán nhà 1 trệt, 1 lửng, 1 lầu đường Trưng Nữ Vương, Phường 1, Vĩnh Long
3 tỷ – 108m2
TP. Vĩnh Long, Vĩnh Long
Hôm nay
0907247***
![]() Youtube CafeLand để theo dõi các video Bảng giá đất mới nhất!
Mọi ý kiến đóng góp cũng như thắc mắc liên quan đến thị trường bất động sản xin gửi về địa chỉ email: [email protected]; Đường dây nóng: 0942.825.711.
Tags: tu van, hoi dap
|
Nguồn : CafeLand.vn ( https://cafeland.vn/kien-thuc/chi-mot-ben-vo-chong-ky-giay-ban-dat-dung-hay-sai-22629.html )